Xây dựng đội quân từ nhân dân và vì nhân dân chiến đấu
(HCM.VN) – Trên 78 năm xây dựng và trưởng thành, mỗi chiến công, mỗi bài học kinh nghiệm của Quân đội nhân dân Việt Nam đều gắn liền với tình thương yêu, sự quan tâm, chăm lo, xây dựng, giáo dục, đào tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam.
1. Xây dựng đội quân cách mạng làm trụ cột
Yêu nước và thương dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn, mà trên cơ sở những nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin về bạo lực cách mạng và vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, Người còn chú trọng vấn đề thành lập “Quân đội công nông”[1] (được khẳng định trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, thông qua tại Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản, tháng 2/1930). Thực tế cũng cho thấy rằng, “trong cuộc đấu tranh gian khổ chống kẻ thù của giai cấp và của dân tộc, cần dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng, giành lấy chính quyền và bảo vệ chính quyền”[2], cho nên, cùng với sự phát triển của tiến trình cách mạng, Người đã chú trọng xây dựng đội quân cách mạng/quân đội công nông mang bản chất giai cấp công nhân, chiến đấu vì lợi ích dân tộc và giai cấp công nhân đặt dưới lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây chính là đặc trưng cơ bản nhất của quân đội cách mạng và đội quân này được trang bị, giáo dục về lý tưởng, mục tiêu, đường lối của Đảng; về nhiệm vụ cách mạng (từ nhận thức trở thành bản lĩnh chính trị, thành niềm tin, ý chí và quyết tâm hành động) theo những định hướng chính trị, những quan điểm, nguyên tắc được ghi rõ trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên và các văn kiện, nghị quyết các kỳ Đại hội của Đảng sau đó.
Bắt đầu từ những đội Tự vệ đỏ trong phong trào Xô Viết- Nghệ Tĩnh, đến đội vũ trang Cao Bằng, du kích Nam Kỳ, Bắc Sơn (sau đổi thành Cứu quốc quân), Ba Tơ… và ngày 22/12/1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đã được thành lập theo Chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Không phụ lòng mong mỏi của Người, với thắng lợi ban đầu (hạ đồn Phai Khắt, Nà Ngần) và từ 34 chiến sĩ đầu tiên, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đã ngày càng mở rộng địa bàn hoạt động; đã phát triển từ đội thành đại đội, rồi thành đại đội chủ lực đầu tiên của quân đội nhân dân Việt Nam… Sự phát triển này đúng như Người đã khẳng định: Tiền đồ của Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân rất vẻ vang và “nó là khởi điểm của giải phóng quân, nó có thể đi suốt từ Nam chí Bắc, khắp đất nước Việt Nam”. Sau đó, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng, Việt Nam giải phóng quân do Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân và Cứu quốc quân hợp lại đã cùng toàn dân làm nên thắng lợi trong cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám 1945, lập nên Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; đưa nhân dân Việt Nam từ thân phận những người nô lệ trở thành chủ nhân của một nước độc lập.
Tuy nhiên, trước sự quay trở lại xâm lược Việt Nam một lần nữa của thực dân Pháp và trong âm vang lời hịch kêu gọi toàn quốc kháng chiến ngày 19/12/1946 của Chủ tịch Hồ Chí Minh “chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, nhân dân cả nước đã đồng chí, đồng lòng, vững vàng bước vào cuộc trường chinh chống thực dân Pháp. Trên tinh thần: 1/Mục đích của cuộc kháng chiến là đánh thực dân phản động Pháp, giành độc lập thống nhất; 2/Tính chất cuộc kháng chiến là toàn dân, toàn diện, trường kỳ; 3/Chính sách kháng chiến là đoàn kết toàn dân, đoàn kết quốc tế; 4/Chúng ta sẽ tiến hành kháng chiến toàn diện, kết hợp các mặt trận và các hình thức đấu tranh, trong đó đấu tranh quân sự là chủ chốt… công tác lãnh đạo của Đảng đối với quân đội được tăng cường; tinh thần đoàn kết thống nhất trong quân đội được củng cố; và kỷ luật nghiêm minh được thực hiện.
Chú trọng xây dựng một đội quân cách mạng “trung với Đảng, hiếu với dân”, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ khẳng định rằng: “Quân đội ta có sức mạnh vô địch, vì nó là một quân đội nhân dân, do Đảng ta xây dựng, Đảng ta lãnh đạo và giáo dục”[3], mà Người còn nhấn mạnh “quân đội phải tôn trọng sự lãnh đạo của Đảng và Chính phủ, phải giúp đỡ các cấp ủy Đảng và chính quyền địa phương. Phải tránh tự kiêu, tự đại, vì lúc thành công thì dễ tự kiêu tự đại, mà đã tự kiêu tự đại là thoái bộ. Bởi vậy, quân đội ta khi thành công càng phải khiêm tốn, chớ có tự kiêu tự đại”[4]. Vì thế, Người không chỉ chăm lo xây dựng và yêu cầu “bộ đội được tổ chức chặt chẽ, tập luyện hẳn hoi, chuẩn bị chu đáo” thường xuyên, liên tục để đảm bảo sẵn sàng chiến đấu, mà còn quan tâm tới các biện pháp nhằm xây dựng tinh thần đoàn kết cho bộ đội, đoàn kết quân dân, đoàn kết quốc tế. Người cũng không chỉ động viên, kêu gọi các tầng lớp nhân dân tham gia giáo dục, rèn luyện, giúp đỡ bộ đội để đội quân cách mạng đó thực sự “đánh giặc là vì dân” chứ “không phải là “cứu tinh” của dân, mà đồng thời còn yêu cầu “mỗi quân nhân phải là cán bộ tuyên truyền bằng việc làm của quân đội” trên tinh thần gắn bó với dân, giúp đỡ dân, thương yêu dân và có trách nhiệm phụng sự nhân dân để làm cho dân tin, dân phục, dân yêu.
Ngày một phát triển về số lượng và nâng cao trình độ tác chiến, tài thao lược trên các chiến trường, sau khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954) kết thúc thắng lợi, xuất phát từ thực tế những năm cả nước đồng thời cùng thực hiện 2 nhiệm vụ chiến lược: vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc vừa tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Phải xây dựng quân đội ngày càng hùng mạnh và sẵn sàng chiến đấu để giữ gìn hoà bình, bảo vệ đất nước, bảo vệ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc làm hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà. Nhiệm vụ đó bao gồm việc xây dựng quân đội thường trực và xây dựng lực lượng hậu bị”[5].
Đáp ứng yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới, quân đội cách mạng được chú trọng xây dựng và phát triển, gồm bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích. Đó là đội quân chiến đấu, đội quân công tác, đội quân sản xuất; trong đó, bộ đội chủ lực thực hiện tốt nhiệm vụ vừa tiêu diệt địch, bảo vệ nhân dân, vừa dìu dắt bộ đội địa phương; bộ đội địa phương phối hợp hành động với bộ đội chủ lực, giúp đõ bộ đội chủ lực và dìu dắt dân quân du kích; còn dân quân du kích vừa phối hợp chặt chẽ với bộ đội chủ lực, vừa tự mình đánh giặc, trừ gian và tham gia sản xuất,v.v.. Đồng thời, chỉ dẫn của Người: “Trong công việc xây dựng và phát triển quân đội, chúng ta phải ra sức đẩy mạnh việc xây dựng và củng cố công tác chính trị và quân sự trong bộ đội ta. Phải nâng cao giác ngộ chính trị, nâng cao chiến thuật và kỹ thuật, nâng cao kỷ luật tự giác của bộ đội ta. Phải làm cho quân đội ta thành một quân đội chân chính của nhân dân”[6] đã được quán triệt và thực hiện trong toàn quân, góp phần làm nên một đội quân cách mạng vững mạnh về chính trị, giỏi về tác chiến, gương mẫu về đạo đức, lối sống; nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng.
2. Tiếp tục xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại
Là tập hợp đông đảo những người công nhân, nông dân, trí thức trung thành với lý tưởng cách mạng của Đảng, với Tổ quốc và nhân dân, “quân đội ta là quân đội nhân dân. Nghĩa là con em ruột thịt của nhân dân. Đánh giặc để tranh lại độc lập thống nhất cho Tổ quốc, để bảo vệ tự do hạnh phúc của nhân dân. Ngoài lợi ích của nhân dân, quân đội ta không có lợi ích nào khác”[7] đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định. Đó là một đội quân luôn nêu cao tinh thần học tập để nâng cao năng lực toàn diện, chấp hành mọi kỷ luật và gương mẫu trong chiến đấu cũng như trong cuộc sống đời thường. Một đội quân trên dưới luôn đoàn kết một lòng, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau, đồng cam cộng khổ cùng nhau trên cơ sở thực sự phát huy dân chủ; trong đó, người chính trị viên phải thấu triệt tinh thần “thân thiết như một người chị, công bình như một người anh, hiểu biết như một người bạn”, để toàn đơn vị thống nhất trong tư tưởng và hành động, nhằm nâng cao sức mạnh chiến đấu, góp phần hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ mà Tổ quốc và nhân dân giao phó.
Là đội quân của nhân dân do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, quân đội nhân dân Việt Nam luôn nhận được từ Người sự quan tâm đặc biệt. Người không chỉ dõi theo mỗi bước trưởng thành của quân đội; cổ vũ, động viên cán bộ và chiến sĩ trước mỗi thắng lợi cũng như chia sẻ, rút kinh nghiệm trước mỗi trận ra quân chưa giành được thắng lợi, mà còn viết thư thăm hỏi, đồng cảm trước những mất mát, hy sinh của các thương bệnh binh và gia đình liệt sĩ,v.v.. Đồng thời, Người cũng dành huy hiệu, những phần quà, cả cuốn sổ tiết kiệm của mình tặng những người chiến sĩ để mua nước uống cho đỡ khát trong những ngày hè nóng nực năm 1967, v.v.. và muôn vàn tình thương yêu cho tất cả cán bộ, chiến sĩ và thân nhân các gia đình thương bệnh binh, liệt sĩ trong bản Di chúc lịch sử trước khi rời xa trần thế.
Điểm đặc biệt làm nên sự gắn bó keo sơn giữa những người lính “bộ đội Cụ Hồ” với nhân dân chính là đội quân cách mạng này là của dân, do dân, vì dân được xây dựng và tổ chức theo tư tưởng Hồ Chí Minh; luôn chiến đấu vì nhân dân, gắn bó với nhân dân. Là quân đội của nhân dân, những người lính “bộ đội cụ Hồ” luôn yêu thương, kính trọng nhân dân và dựa vào nhân dân như “cá với nước”; không chỉ sẵn sàng giúp dân về mọi mặt mà còn quyết “không động đến cái kim và sợi chỉ của nhân dân” để làm cho dân mến, “khi sắp tới dân mong, khi đi dân tiếc”. Đó là những người chiến sĩ không chỉ chiến đấu với kẻ thù để bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, bảo vệ cuộc sống yên bình của nhân dân, mà còn sẵn sàng tham gia phòng chống thiên tai, bão lũ để bảo vệ an toàn tính mạng của nhân dân cả thời chiến cũng như thời bình…
Đây không chỉ là bản chất của quân đội cách mạng mà còn là nhân tố quan trọng góp phần làm nên sức mạnh tổng hợp về chính trị, tinh thần, ý chí quyết chiến, quyết thắng và tài thao lược của quân đội ta trước mọi kẻ thù, trong mọi hoàn cảnh. Vì thế, hơn 77 năm qua, mỗi thành tựu của một đất nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, ngày một đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng hôm nay đều gắn liền với quá trình xây dựng, phát triển của quân đội nhân dân Việt Nam nói riêng, với toàn dân nói chung dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng. Và cũng vì thế, trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng và trong khi “các thế lực thù địch tiếp tục chống phá Đảng và đất nước ta. Bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định và thích ứng với biến đổi khí hậu là yêu cầu cấp thiết, đồng thời là những thách thức rất lớn đối nước ta trong thời gian tới”[8], thì việc “phải ra sức xây dựng Quân đội ta thành một quân đội nhân dân hùng mạnh, một quân đội cách mạng tiến lên chính quy và hiện đại, để giữ gìn hòa bình, bảo vệ Tổ quốc”[9] như Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định càng trở nên quan trọng, cấp bách và có ý nghĩa sâu sắc.
Trước nhiều vận hội lớn lao và cả những thách thức khôn lường, cùng với việc tiếp tục phát huy truyền thống của đội quân cách mạng được trui rèn trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc; trong những năm tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống Mỹ, cứu nước (1945-1975) là yêu cầu phải tập trung xây dựng, tổ chức quân đội nhân dân Việt Nam tinh, gọn, mạnh, tính cơ động cao… đủ sức hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao trong mọi tình huống, xứng đáng là lực lượng trụ cột trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa ngày một phồn vinh, hạnh phúc. Đây không chỉ là đòi hỏi khách quan, bảo đảm cho quân đội đủ sức hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao trong tình hình mới, mà còn thể hiện tầm nhìn chiến lược của Đảng trong việc thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đủ sức mạnh bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa” theo kế sách “chủ động giữ nước từ khi nước chưa nguy”; đồng thời, ngăn ngừa được nguy cơ chiến tranh, xung đột, bảo vệ vững chắc thành quả cảu sự nghiệp cách mạng.
Đặc biệt, trong bối cảnh các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội chính trị luôn tăng cường các hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước, quân đội bằng chiến lược “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy sự “tự diễn biến, tự chuyển hóa” tiến tới đòi “phi chính trị hóa quân đội” với những âm mưu, thủ đoạn hết sức tinh vi, thâm độc, khó nhận diện trên mọi lĩnh vực, nhất là trên mạng xã hội, thì xây dựng quân đội tinh, gọn, mạnh, tiến lên hiện đại càng phải gắn liền với sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng. Đó là nguyên tắc bất di, bất dịch của cách mạng Việt Nam và nguyên tắc này đã được hiến định trong Hiến pháp; đồng thời cũng là bài học kinh nghiệm được thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam khẳng định, thể hiện rõ tư tưởng Hồ Chí Minh: “Thống nhất các bộ đội võ trang dưới quyền chỉ huy của Chính phủ. Các đảng phái không được có quân đội riêng”[10].
Đồng thời, để chủ động đối phó với những âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động, thù địch trong giai đoạn mới, thì cả hệ thống chính trị càng phải “quán triệt sâu sắc phương châm bảo đảm quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên. Kết hợp chặt chẽ giữa bảo đảm quốc phòng, an ninh với phát triển kinh tế – xã hội; hoàn thiện lý luận về quốc phòng, an ninh và tư duy mới về bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, từ khi “nước chưa nguy” trên cơ sở xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc; xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại”[11] theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng. Trên tinh thần đó, phải thực hiện Nghị quyết số 05-NQ/TW ngày 17/1/2022 của Bộ Chính trị về tổ chức Quân đội nhân dân Việt Nam giai đoạn 2021- 2030 và những năm tiếp theo; Nghị quyết số 230-NQ/QUTW ngày 2/4/2022 của Quân ủy Trung ương về lãnh đạo thực hiện tổ chức Quân đội nhân dân Việt Nam giai đoạn 2021- 2030 và những năm tiếp theo… để tạo nên sức mạnh tổng hợp của quốc gia về tiềm lực mọi mặt, về thế trận quốc phòng toàn dân, về xây dựng quân đội cách mạng chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại gắn bó chặt chẽ với nhân dân, đủ sức đánh thắng mọi hành động xâm lược, chống phá của kẻ thù./.
[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.3, tr.1
[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.15, tr.391
[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.14, tr.435
[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.11, tr.367
[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.11, tr.365
[6]Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.7, tr.37
[7] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.7, tr.334
[8] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t.I, tr.108
[9] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.11, tr.585
[10] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.4, tr.173
[11]Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t.I, tr.100-101
TS. Văn Thị Thanh Mai