Giáo dục đạo đức truyền thống cho thế hệ trẻ trước thách thức của thời đại
Trong quá trình đổi mới, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, giáo dục nói chung và giáo dục đạo đức truyền thống bên cạnh những điều kiện thuận lợi và cơ hội là không ít thách thức, khó khăn đặt ra
Trong đó có những khó khăn, thách thức chưa có tiền lệ; có những khoảng cách khó phân định giữa cái đúng và cái sai, giữa giá trị và phản giá trị, văn hóa và phản văn hóa…
(Ảnh minh họa)
1. Với tư cách là một hiện tượng xã hội, đạo đức tồn tại trong mọi quốc gia – dân tộc. Nói cách khác mọi quốc gia – dân tộc đều có truyền thống đạo đức của mình. Trải qua quá trình lịch sử dựng nước và giữ nước, hầu hết các quốc gia – dân tộc đều hình thành nên hệ giá trị, chuẩn mực, lối sống và hành vi ứng xử của mình. Vì vậy, đạo đức truyền thống của dân tộc là hệ thống các quy tắc, chuẩn mực dùng để điều chỉnh nhận thức, hành vi và đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau được hình thành trong lịch sử và được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Xuất phát từ những chủ trương, định hướng của Đảng về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, chúng ta có thể xác định được những nội dung trọng tâm trong hệ thống giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam, nổi bật là “lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân – gia đình – làng xã – Tổ quốc; lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống”(1). Theo đó, các giá trị đạo đức truyền thống được đề cập là: lòng yêu nước; ý thức cộng đồng, tinh thần đoàn kết; nhân nghĩa, bao dung, trọng tình nghĩa; cần cù, sáng tạo trong lao động sản xuất; dũng cảm, bất khuất, kiên cường trong chống giặc ngoại xâm; hiếu học; yêu chuộng hòa bình.
Giáo dục đạo đức truyền thống của dân tộc là một trong những hình thức hoạt động xã hội cơ bản của con người nhằm trao đổi và chuyển giao tri thức, kinh nghiệm cho một cá nhân hay một nhóm, tập thể đối tượng nào đó; là sự đạt được những giá trị và các mô hình hành vi theo một mục đích, yêu cầu đã được đề ra. Về bản chất, giáo dục là một hình thức hoạt động và giao lưu giữa chủ thể giáo dục với đối tượng giáo dục, nhằm giúp đối tượng giáo dục nhận thức đúng, tạo lập tình cảm và thái độ đúng, hình thành những thói quen hành vi văn minh trong cuộc sống, phù hợp với chuẩn mực xã hội. Theo đó, giáo dục đạo đức truyền thống của dân tộc là quá trình truyền thụ giá trị đạo đức đã được các thế hệ trước tạo ra nhằm giúp đối tượng giáo dục nhận thức đúng, tạo lập tình cảm, niềm tin yêu dân tộc và có được hành vi chứa đựng giá trị đạo đức cao.
(Ảnh minh họa)
Ý thức đạo đức, hành vi đạo đức cũng như quan hệ đạo đức được hình thành chủ yếu bằng hai con đường: tự phát và tự giác. Trong con đường tự giác, giáo dục đạo đức đóng vai trò hết sức quan trọng, nhất là đối với các giá trị đạo đức truyền thống. Vì vậy, trong tình hình mới, một trong những nhiệm vụ rất quan trọng của giáo dục là phải khơi dậy động lực tinh thần to lớn của con người Việt Nam nhằm thúc đẩy khát vọng cống hiến, xây dựng, phát triển đất nước phồn vinh hạnh phúc; phát huy giá trị văn hóa, tài năng, trí tuệ, phẩm chất đạo đức. Đây là một trong những động lực to lớn, là nguồn lực nội sinh quan trọng nhằm đạt tới các mục tiêu phát triển đất nước đến giữa thế kỷ XXI. Theo đó, giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho thế hệ trẻ là đóng vai trò quyết định để xây dựng những thế hệ tương lai “vừa hồng vừa chuyên” của đất nước.
2. Với tư cách là một hình thức hoạt động xã hội, hoạt động giáo dục chịu sự tác động rất lớn của môi trường tự nhiên và xã hội nói chung, trong đó có môi trường giáo dục. “Con người tạo ra hoàn cảnh đến mức nào thì hoàn cảnh cũng tạo ra con người đến mức ấy”(2).
Môi trường giáo dục tác động trực tiếp đến chủ thể giáo dục và đối tượng giáo dục, bao gồm tâm tư, tình cảm, trách nhiệm của người dạy và người học; sử dụng cơ sở vật chất phục vụ cho giảng dạy và học tập; thực hiện mục tiêu giáo dục đề ra…
Sự hình thành và phát triển nhân cách người học phụ thuộc rất lớn vào môi trường nói chung, môi trường giáo dục nói riêng. Theo đó, môi trường trong sạch, lành mạnh sẽ tác động tốt, tạo điều kiện thuận lợi cho giáo dục phát triển, hiệu quả học tập sẽ cao; mục tiêu giáo dục sẽ được thực hiện. Ngược lại, sẽ ảnh hưởng xấu đến chất lượng giáo dục, trong đó có giáo dục đạo đức.
Bên cạnh những kết quả đạt được, môi trường giáo dục của chúng ta thời gian qua cũng còn nhiều hạn chế, bất cập, tác động trực tiếp đến kết quả giáo dục nói chung, giáo dục đạo đức truyền thống dân tộc nói riêng. Đại hội XIII của Đảng đã nêu ra: “Môi trường văn hoá, xã hội tiếp tục bị ô nhiễm bởi các tệ nạn xã hội, tham nhũng, tiêu cực… Chưa có giải pháp hữu hiệu để ngăn chặn, đẩy lùi sự xuống cấp nghiêm trọng về một số mặt văn hoá, đạo đức, lối sống, gây bức xúc xã hội”(3). Trong lĩnh vực giáo dục, “chưa chú trọng đúng mức đến phát triển phẩm chất và kỹ năng người học. Giáo dục “làm người”, đạo đức, lối sống còn bị xem nhẹ… Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục, trên một số mặt vẫn còn bất cập về chất lượng, số lượng, cơ cấu và chính sách đãi ngộ. Quản lý nhà nước và quản lý – quản trị nhà trường còn nhiều hạn chế”(4). Đây chính là một trong những nguyên nhân làm cho “Chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo chưa cao”, giáo dục và đào tạo chưa trở thành “động lực then chốt thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội”(5).
Một trong những vấn đề đặt ra đối với môi trường giáo dục đạo đức truyền thống hiện nay là là sự xung đột trong quan niệm về giá trị truyền thống với giá trị hiện đại; giữa dân tộc và nhân loại; giữa nhà trường – gia đình và xã hội. Việc đem quan điểm và những “lập luận” của kinh tế thị trường để “áp” vào giáo dục, cho rằng giáo dục là dịch vụ, học sinh và gia đình là khách hàng đã và đang là nguy cơ làm biến dạng nhiều giá trị truyền thống tốt đẹp, khiến cho môi trường giáo dục trở nên thiếu lành mạnh.
Bác Hồ với đồng bào các dân tộc. (Tranh: Đặng Nam/ Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam)
3. Về bản chất, kinh tế thị trường là nền kinh tế vận hành theo sự điều tiết của cơ chế thị trường, lấy sự tồn tại và phát triển của quan hệ hàng hóa – tiền tệ làm cơ sở; là kinh tế hàng hóa đạt đến trình độ xã hội hóa cao với trình độ kỹ thuật nhất định, trong đó toàn bộ hay hầu hết đầu vào và đầu ra của sản xuất đều phải thông qua thị trường(6). Vì thế, bên cạnh tạo ra những điều kiện tốt hơn, thì kinh tế thị trường cũng đã và đang có những tác động không mong muốn đến chủ thể và đối tượng giáo dục; đến mục tiêu, chương trình và cả phương pháp dạy và học – thông qua việc sử dụng phương tiện dạy học tiên tiến, thông qua việc hiện đại hóa cơ sở vật chất kỹ thuật…. Điều này đã được nêu rõ trong Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.
Vấn đề đặt ra là, trong bối cảnh, tình hình mới, không thể đi ngược lại xu thế mà phải biết cách thích nghi để điều chỉnh, biết cách vận dụng linh hoạt để “gạn đục khơi trong”… Muốn vậy, con đường giáo dục và tuyên truyền cùng những tiến bộ, nhân văn trong cơ chế chính sách vẫn phải đóng vai trò quyết định. Theo đó, để nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức truyền thống cho thế hệ trẻ trước những thách thức của thời đại, cần chú trọng hơn nữa đến những giải pháp đã được xác định trong nhiều văn kiện, nghị quyết của Đảng, trong đó có Nghị quyết 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.
Một là, triển khai có hiệu quả, thực chất hơn nữa những quan điểm chỉ đạo đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, trong đó có “Chủ động phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển giáo dục và đào tạo”(7).
Chúng ta không thể phủ nhận những tác động tích cực của kinh tế thị trường đến việc học tập và rèn luyện của đối tượng giáo dục, trong đó có học tập các giá trị đạo đức truyền thống. Tuy nhiên, tác động tiêu cực của kinh tế thị trường đến một bộ phận chủ thể giáo dục cũng như đối tượng giáo đạo đức truyền thống dân tộc là không nhỏ. Đó là tâm lý coi trọng giá trị vật chất, xem nhẹ giá trị tinh thần; là tâm lý hưởng thụ; đề cao chủ nghĩa thực dụng. Từ Đại hội VIII, Đảng ta đã chỉ rõ kinh tế thị trường “có những mặt tiêu cực mâu thuẫn với bản chất của chủ nghĩa xã hội. Đó là xu thế phân hóa giàu nghèo quá mức, là tâm lý sùng bái đồng tiền, vì đồng tiền mà chà đạp lên đạo đức, nhân phẩm…”(8).
Hai là, phát huy những giá trị, lợi thế của quá trình toàn cầu hóa trong giáo dục đạo đức truyền thống cho thế hệ trẻ. Lan tỏa những mặt tích cực trong giao lưu văn hóa, tiếp thu các giá trị văn hóa phù hợp của các quốc gia – dân tộc trên thế giới.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa diễn ra ngày càng mạnh mẽ, việc tăng cường các giải ph tuyên truyền, giáo dục nhằm biến thách thức thành cơ hội; tạo nên sức đề kháng để ứng xử và tiếp biến có trọng tâm trọng điểm. Điều đó không chỉ bổ trợ, làm phong phú thêm giá trị văn hóa đạo đức truyền thống và mở không gian văn hóa mà còn làm tăng thêm sức mạnh mềm, lan tỏa văn hóa dân tộc vào “văn hóa toàn cầu”. Đây là một phương thức/mô hình giao lưu giữa các nền văn hóa, giữa các chủ thể văn hóa khác nhau, biểu hiện trong nhận thức, quan niệm, quy phạm đạo đức, quy tắc thông lệ trong toàn cầu hóa; hình thành nên các giá trị toàn cầu, những bộ quy tắc, chuẩn mực được cộng đồng quốc tế chấp thuận.
Ba là, “toàn cầu hóa văn hóa” không đồng nghĩa với đồng nhất văn hóa. Vì thế, phải luôn nâng cao tinh thần cảnh giác, đề phòng nguy bị “xâm lăng văn hóa” từ xu thế toàn cầu hóa.
Tinh thần nhân văn hiện đại và nguyên lý phát triển vì sự phồn vinh toàn nhân loại là phải tôn trọng bản sắc văn hóa của các dân tộc; không tạo ra bất bình đẳng, xung đột, mâu thuẫn trong quá trình giao lưu văn hóa; là tiếp nhận có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại để làm phong phú thêm văn hóa dân tộc. Đây phải được coi là nền tảng của toàn cầu hóa văn hóa, trong đó có văn hóa đạo đức.
Bốn là, tăng cường chấn chỉnh và kiên quyết khắc phục tình trạng “nhập khẩu”, vay mươn, dung nạp những trào lưu của cái gọi là “văn hóa hiện đại” hay “văn hóa đương đại” nhưng thực chất lại là sự kệch cỡm, lố bịch, không phù hợp với thuần phong mỹ tục, với văn hóa đạo đức truyền thống dân tộc.
Chính toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đã mang lại cho chủ thể và đối tượng giáo dục nhiều cơ hội tích cực cũng như những giá trị trong giao lưu, hợp tác, tiếp biến văn hóa, trong đó có văn hóa đạo đức. Nhờ đó chúng ta có thêm những tiêu chí, giá trị đạo đức mang tính phổ quát, những giá trị tinh thần – văn hóa chung được cộng đồng thế giới chấp nhận để làm hệ quy chiếu, bổ sung, phát triển các giá trị đạo đức truyền thống dân tộc trong hoàn cảnh lịch sử mới. Nhưng cũng chính toàn cầu hóa và hội nhập thế giới đã và đang đặt ra không ít khó khăn, thách thức đối với việc giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho thế hệ trẻ. Tình trạng “nhập khẩu”, quảng bá, tiếp thu dễ dãi, thiếu chọn lọc sản phẩm văn hóa nước ngoài đã tác động tiêu cực đến đời sống văn hóa của một bộ phận nhân dân, nhất là lớp trẻ. Vì vậy, nếu không tăng cường chấn chỉnh và kiên quyết khắc phục tình trạng này, không quan tâm đúng mức đến giáo dục đạo đức truyền thống dân tộc, không chú ý giữ gìn bản săc văn hóa thì việc trở thành bóng mờ của nền văn hóa khác chỉ là vấn đề thời gian.
Chỉ thị 46-CT/TW ngày 27/7/2010 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về “Chống sự xâm nhập của các sản phẩm văn hóa độc hại gây hủy hoại đạo đức xã hội” đánh giá: “nhiều sản phẩm văn hoá độc hại từ bên ngoài đã xâm nhập vào nước ta bằng nhiều con đường, tác động rất xấu đến tư tưởng, đạo đức, lối sống, tâm lý, hành vi của một bộ phận nhân dân, nhất là thanh thiếu niên; làm huỷ hoại, xói mòn nền tảng và những giá trị đạo đức tốt đẹp của dân tộc. Lối sống thực dụng, vụ lợi, vị kỷ, thích hưởng lạc, sa đoạ; cái xấu, cái ác, phi nhân tính có dấu hiệu tăng lên rõ rệt. Môi trường đạo đức và văn hoá lành mạnh bị đe doạ nghiêm trọng, có nguy cơ dẫn tới khủng hoảng tinh thần, mất phương hướng lựa chọn các giá trị, lối sống và niềm tin của một bộ phận công chúng”, “Tình trạng đó đã và đang ảnh hưởng trực tiếp đến trật tự, an toàn, an ninh xã hội, dẫn đến khuynh hướng tự diễn biến về chính trị, tư tưởng, tác hại lâu dài đến các thế hệ mai sau”.
Đoàn viên thanh niên với công tác đền ơn đáp nghĩa. (Ảnh minh họa)
Năm là, bên cạnh thực hiện tốt các quan điểm, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước liên quan đến giáo dục đạo đức truyền thống cho thế hệ trẻ, cần đẩy mạnh các giải pháp đồng bộ giữa nhà trường – gia đình – xã hội. Theo đó, hệ thống chính trị các cấp và hệ thống giáo dục quốc dân cần chú trọng đến những vấn đề:
1) Đa dạng hóa nội dung, phương pháp, hình thức giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức lối sống và khơi dậy khát vọng cống hiến cho thanh niên, thiếu niên, nhi đồng; tiếp tục đổi mới công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức của giới trẻ và trách nhiệm của các cấp, các ngành trong công tác giáo dục đạo đức truyền thống; tổ chức hiệu quả các phong trào hành động cách mạng của Đoàn, Hội, Đội trong và ngoài nhà trường; tổ chức các hoạt động tư vấn tâm lý và giáo dục kỹ năng sống, giá trị sống, văn hóa ứng xử cho giới trẻ.
2) Xây dựng và thực hiện hiệu quả cơ chế phối hợp giữa nhà trường – gia đình – xã hội. Phát huy vai trò, trách nhiệm của gia đình trong việc chăm sóc, giáo dục đạo đức, lối sống cho thanh niên, thiếu niên, nhi đồng. Xây dựng môi trường nhà trường dân chủ, lành mạnh, thân thiện. Tăng cường trách nhiệm của chính quyền địa phương và các tổ chức đoàn thể. Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ, giáo viên, giảng viên, cộng tác viên phụ trách công tác giáo dục thanh niên, thiếu niên và nhi đồng.
3) Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số trong giáo dục đạo đức truyền thống đối với thế hệ trẻ; phối hợp rà soát, bổ sung, hoàn thiện chính sách hỗ trợ việc thực hiện giáo dục đạo đức truyền thống gắn với giáo dục lý tưởng cách mạng, lối sống và khơi dậy khát vọng cống hiến; bảo đảm các thiết chế và điều kiện hạ tầng, cơ sở vật chất đáp ứng nhiệm vụ giáo dục; nâng cao hiệu quả công tác quản lý, thanh tra, kiểm tra, giám sát…
Tóm lại, trong quá trình đổi mới, phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, giáo dục nói chung và giáo dục đạo đức truyền thống bên cạnh những điều kiện thuận lợi và cơ hội là không ít thách thức, khó khăn đặt ra, trong đó có những khó khăn, thách thức chưa có tiền lệ; có những khoảng cách khó phân định giữa cái đúng và cái sai, giữa giá trị và phản giá trị, văn hóa và phản văn hóa… Vì thế, ngay từ trong nhận thức của các chủ thể giáo dục và đối tượng giáo dục cũng có những vấn đề chưa thống nhất, còn mâu thuẫn, nhất là nhận thức về những vấn đề liên quan đến phát triển con người trong một thế giới đa cực và phức tạp. Chưa bao giờ chúng ta thấy sức ảnh hưởng lớn từ những làn sóng văn hóa ngoại lai dẫn đến thay đổi những giá trị đạo đức, văn hóa truyền thống như hiện nay. Tính hai mặt của nó đang hiện hữu trong phong cách ứng xử, giao tiếp của giới trẻ, trong các quan hệ gia đình – nhà trường – xã hội. Vì vậy, giáo dục đạo đức truyền thống cho thế hệ trẻ hiện nay đã và đang là vấn đề vừa mang tính cấp bách, vừa mang tầm chiến lược, rất cần sự chung tay của nhiều chủ thể xã hội, trong đó vai trò đặt biệt quan trọng, mang yếu tố quyết định là các nhà trường – môi trường sư phạm./.
TS. BÙI THỊ THỦY
ThS. NGUYỄN THU HIỀN
ThS. NGUYỄN THỊ NHƯ THẾ
_________________
Bài viết là sản phẩm của đề tài cấp Trường Đại học Sư phạm Hà Nội: Giáo dục đạo đức truyền thống của dân tộc cho sinh viên trường Đại học Sư phạm Hà Nội trong bối cảnh toàn cầu hóa, Mã số: SPHN22-30
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Khóa VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 1998, tr.56.
(3) (4) (5) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2021, t.I, tr.84-85, 82-83, 82.
(6) Nguyễn Thị Kim Dung: Tác động của kinh tế thị trường đến đạo đức người sản xuất, kinh doanh Việt Nam hiện nay, Nxb. Lý luận chính trị, H, 2022, tr.9-10.
(7) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Khóa XI, Văn phòng Trung ương Đảng, H, 2013, tr.121.
(8) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, H. 1996, tr.72.
Theo tuyengiao.vn